Viết phần tham khảo thêm họ Phạm

 Phần này được gọi là Phụ khảo trong cuốn Gia Phả, ngoài cách viết dưới đây, quý độc giả có thể scan sao chụp lại các tờ văn bản chữ Hán Nôm, tài liệu xưa do cha ông để lại để làm cơ sở đối chiếu so sánh.

Phụ khảo

MỒ MẢ VÀ VIỆC CÚNG GIỖ


Mỗi tộc họ thông thường có một đồng mả riêng để an táng những người trong dòng họ mình, hoặc an táng tập trung trong đồng mả làng, xã... Nhưng với họ Phạm (họ Phạm thuộc cánh ông Phạm Văn Vân ở xã Phước Long), có lẽ do điều kiện khách quan mà mồ mả của dòng họ không được an táng tập trung.

Ông Phạm Văn Vân (đời II) được xem là vị họ Phạm cao nhất ở xã Phước Long, ông có ba người con trai sinh ra nhiều hậu duệ lưu truyền cho đến ngày hôm nay là: ông ba Phạm Văn Lại, ông năm Phạm Văn Mùa và ông sáu Phạm Văn Dư.

Ngoại trừ khu mả tại ấp 6 xã Phước Long, huyện Giồng Trôm tập trung khoảng hơn 20 ngôi mộ, (mà chủ yếu là của con cháu trong cánh ông Phạm Văn Dư). Còn lại đa số mồ mả được chôn trong đất vườn nhà. Con cháu cánh ông ba Phạm Văn Lại hiện nay chủ yếu sống tại xã Thạnh Phú Đông, còn con cháu ông năm Phạm Văn Mùa sống chủ yếu tại Cà Mau. Qua những chuyến điền dã, chúng ta thấy rằng mồ mả của những người quá vãng của hai cánh này được chôn chủ yếu cũng tại đất vườn nhà. Có lẽ chính vì thế mà hằng năm không có ngày dẫy mả chung của dòng họ.

Mồ mả của những vị tổ cũng còn rất sơ sài. Mộ của ông bà tổ họ Phạm và mộ của ông bà Phạm Văn Hậu (đời II) ở xã Nhơn Thạnh, rồi mộ ông bà Phạm Văn Lại (đời III) ở xã Thạnh Phú Đông vẫn còn là những chiếc mộ đất bé nhỏ thật khiêm tốn.

Việc cúng giỗ hiện nay cũng chỉ dừng lại ở phạm vi cúng “ông bà”, cánh nào cúng riêng cánh đó, không có ngày giỗ tổ qui tụ con cháu để ôn lại lịch sử của dòng họ, để con cháu có dịp gặp và biết nhau và để thắt chặt hơn nữa tình cảm ruột thịt.

Giữa cánh họ Phạm của ông Phạm Văn Hậu (đời II) ở xã Nhơn Thạnh và cánh họ Phạm của ông Phạm Văn Vân (đời II) ở xã Phước Long trước đây thời ông Năm Tòng, Năm Bá thuộc cánh họ Phạm xã Nhơn thạnh có qua dự đám giỗ của ông Phạm Văn Dư (đời III) ở Phước Long, từ khi hai người này qua đời thì cánh Nhơn Thạnh cũng không có ai qua.

Trong quá trình dựng phả cũng đã tìm ra được họ tên của vị họ Phạm cao nhất ở Phước Long là ông Phạm Văn Vân, sinh năm 1848, cùng với họ tên của người chánh thất là bà Võ Thị Đừng. Thiết nghĩ con cháu cũng cần sửa chữa lại mộ bia, vì hiện nay trên mộ bia của ông bà chỉ ghi là “Phần mộ cụ ông thân sinh ông Phạm Văn Dư” và “Phần mộ cụ bà thân sinh ông Phạm Văn Dư”.

Việc hoàn thành bộ gia phả họ Phạm có thể xem là thành công bước đầu của dòng họ trong việc “ôn cố, tri tân”, song để có một nơi, một dịp cho con cháu về hội tụ hằng năm hoặc để con cháu ở xa viếng thăm nhằm nhớ lại gốc gác của mình mỗi lần về quê nhà, việc xây dựng nhà thờ của dòng họ và tổ chức lễ giỗ tổ hằng năm là việc làm rất thiết thực mà dòng họ cần quan tâm hơn nữa trong tương lai.



 

NHỮNG CÂU CHUYỆN CHƯA BIẾT VỀ ÔNG PHẠM VĂN MÙA


Vấn đề về ông Phạm Văn Mùa (bà con thường gọi là ông Năm Cà Mau), được xem là một câu chuyện lý thú sau sự kiện phát hiện ra mối liên hệ thông gia giữa họ Phạm và họ Phan, mà kết quả là cử nhân Phan Văn Trị có người cháu gái làm dâu họ Phạm.

Theo câu chuyện truyền miệng của những người lớn tuổi trong dòng họ, ông Năm Cà Mau rời bỏ quê hương về khai khẩn vùng đất mới tại Cà Mau là do yếu tố nghèo khó. Tuy  nhiên trong quá trình sưu tra các tài liệu, những chuyến điền dã để dựng phả chúng tôi đã phát hiện ra rằng sự kiện của ông Năm Cà Mau trái hẳn với những gì mà chúng ta hiểu. Chúng tôi xin chép ra những sự kiện sau đây hầu để minh định cho một con người vốn mang nặng tinh thần yêu nước, bất khuất kiên trung của người dân xứ dừa trong phong trào đấu tranh giành độc lập cho nước nhà.

1. Tham gia hội kín tại Phước Long

Vốn sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, từ những năm khởi đầu của công cuộc chống Pháp. Ông vốn đã ảnh hưởng cái dư âm của cao trào chống Pháp mà căn cứ địa đặt ngay tại quê hương của mình như cuộc khởi nghĩa của Lãnh Binh Thăng, Tán Kế, cuộc khởi nghĩa của Phan Tôn, Phan Liêm. Ông  đã tham gia vào hoạt động của Thiên Địa Hội do Lê Văn Khanh (Tư Khanh) thành lập vào tháng 02/1916. Ông là hạt nhân chính trong việc phát triển hội kín này trong các xã Châu Hoà, Bình Chánh, Phước Long, Tân Thanh, Tân Hào.

Trong cuộc nổi dậy tấn công vào làng Tân Phú Tây, tổng Minh Thiện, huyện Mõ Cày vào trước ngày Tết Nguyên đán năm 1916, do Nguyễn Văn Đáng lãnh đạo dưới sự chỉ đạo và điều phối chi viện lực lượng từ Phước Long do ông Phạm Văn Mùa lãnh đạo. Tài liệu ghi chép về hoạt động Thiên Địa Hội tại Bến Tre được lưu giữ tại chùa Minh Sư  ở Lương Hoà ghi chép rất rõ ràng về sự kiện nêu trên trong đó xác định ông Phạm Văn Mùa được sự uỷ quyền của lãnh đạo Hội đã trực tiếp chỉ đạo cho Nguyễn Văn Đáng tổ chức cuộc tấn công trên.

Một tài liệu khác viết bằng tiếng Pháp nói về cuộc nổi dậy này là tài liệu Monographie de la province de Ben Tre, 1930 đã ghi chép tên ông như là một người lãnh đạo cao cấp của hội kín Thiên Địa Hội tại Phước Long dựa vào lời khai của Nguyễn Văn Đáng. Phong trào Thiên Địa Hội hoạt động rộng khắp sau sự kiện này và đã thu hút rất nhiều nông dân tham gia hưởng ứng khiến cho bọn thực dân Pháp hết sức lo lắng.

Tại các tỉnh Nam kỳ ngoài số tuần canh địa phương, vào năm 1923, chính quyền thuộc địa phải thành lập đến hai mươi chín đội cảnh sát lưu động, mỗi đội gồm một thanh tra Pháp và nhiều tay chân người Việt. Những đội cảnh sát lưu động này lùng sục khắp nơi trong hầu hết các tỉnh. Tuy thế, chính quyền thực dân vẫn không thiết lập được sự ổn định như chúng mong muốn.

Ông Phạm Văn Mùa là một trong những người mà chính quyền thực dân tìm cách bắt bớ giam cầm. Nhưng sự kiện vợ ông mất vào năm 1920 sau những năm cư tang và trước sự đàn áp của Pháp, năm 1923, ông  đã đưa các con rời quê hương xuôi thuyền về vùng  tận cùng của đất nước là mũi Cà Mau vừa khai  khẩn đất đai vừa tìm cách trốn tránh sự tuy nã của bọn thực dân Pháp. Và cũng tại vùng đất Cà Mau này, tên ông lại được ghi chép không phải là người lãnh đạo kháng Pháp mà là người có công đầu trong việc khai khẩn vùng đất mới Đầm Dơi.

2. Người khai khẩn vùng đất Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau

Theo địa phương chí do quan tham biện chủ tỉnh Bạc Liêu thực hiện, nhà  nghiên cứu Vũ Văn Tĩnh dẫn lại trong bài  nghiên cứu về những thay đổi về địa lý hành chính các tỉnh Nam kỳ trong thời kỳ Pháp thuộc, tạp chí nghiên cứu lịch sử số 146 - 1972 tr 28 ,40 đã cho rằng “Vùng đất Đầm Dơi vốn xưa kia dùng làm nơi căn cứ của vua Gia Long trong giai đoạn đối đầu với triều đại Tây Sơn. Khi lập tỉnh Cà Mau thì địa danh Đầm Dơi đã có từ trước. Tuy nhiên mãi cho đến năm 1924 mới có một nhóm  người từ Bến Tre tìm đến khai hoang trong đó có một người là lãnh đạo của Thiên Địa Hội có tên là Phạm Văn Mùa người dân vùng này thường gọi là Năm Mùa…”.

Từ tư liệu này đã phần nào khái quát lên rằng ông là những người đầu tiên đến khai khẩn vùng đất Đầm Dơi, mở đầu một công cuộc tị địa mới vừa thoát khỏi nanh vuốt ruồng bố của thực dân Pháp vừa tạo nên một đợt thiên cư lớn tìm về vùng đất cực Nam tổ quốc. Ở đây với một vùng đất mà dân gian đã gán cho rằng “xuống sông sấu cắn, lên rừng cọp tha”. Ông đã được xem như  là một trong những người có công đầu trong việc khai phá vùng đất non trẻ này. Ông đã khai phá những vùng đầm lầy tạo thành những vùng đất phì nhiêu để rồi sau đó những người con của ông đã thừa hưởng những mảnh đất mang nặng phù sa bồi tụ tạo nên những cánh đồng trù phú để bù lại cho cuộc sống tha hương.

Những năm cuối cuộc đời, với nỗi hoài vọng cố hương ông đã tìm về lại quê hương và sống với một người cháu ruột (vốn cũng là chiến sĩ cách mạng từng bị tù đày) rồi trút hơi thở cuối cùng trên chính mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Ông hưởng thọ 80 tuổi, nhưng niềm ước ao duy nhất chưa thực hiện được đó là muốn gặp con cháu trong giờ phút lâm chung để đi vào cõi bất diệt. Đó cũng là nỗi niềm canh cánh đối với những người con cháu của ông ở Cà Mau hiện nay.

 

MỐI QUAN HỆ THÂN TỘC CỦA PHAN VĂN TRỊ NHÌN TỪ GIA PHẢ HỌ PHẠM Ở PHƯỚC LONG, GIỒNG TRÔM, BẾN TRE


Đền thờ Phan Văn Trị ở xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre  

Như một hệ lụy của cuộc đời những con người trong một cuộc chiến đấu kiên trung với một thế lực bán nước và cướp nước thì những di chứng mà những chiến sĩ ấy nhận được là những mất mát lớn lao bên cạnh sự tôn vinh ngợi ca của các thế hệ. Cụ sinh ra vốn đã mang một hệ luỵ như thế trong cuộc trường chinh cùng ý chí và nghị lực, thông qua ngòi bút đã lm dấy lên tinh thần kháng Pháp mạnh me, lan rộng khắp vùng Nam bộ.

Cùng thời với cụ tú tài Nguyễn Đình Chiểu trong phong trào tìm vùng đất để tị địa của hàng sĩ phu yêu nước, cụ Phan Văn Trị đã tìm về làng Nhân Ái thuộc Cái Răng, Phong Điền, Cần Thơ. Một vùng đất hoang vu kinh ngòi chằng chịt làm nơi lánh nạn. Chính tại đây cùng với việc mở trường dạy học để đào tạo các thế hệ học sĩ, tên tuổi của cụ đã được khắc ghi trong cuộc bút chiến diễn ra giữa tiếng súng chống xâm lăng đang nỗ giòn giã ở khắp xứ lục tỉnh Nam kỳ. Có thể xem cuộc bút chiến này là cuộc đấu tranh văn hoá tư tưởng quyết liệt giữa các bậc nho sĩ đương thời mà một bên là đứng về nhân dân tập hợp quần chúng để kháng Pháp, một bên chọn giải pháp hoà hiếu, trung lập, đàm phán theo quan điểm của triều đình và một bên nữa lại đứng hẳn quy thuận với bọn thực dân xâm lược. Cụ cử nhân Phan Văn Trị là người đứng về nhân dân để kêu gọi tinh thần chống Pháp một cách quyết liệt. Chính cái quyết liệt ấy đã nổ ra một cuộc bút chiến đánh Tôn Thọ Tường, một nhà nho hợp tác với thực dân Pháp và cũng là người bạn thơ trong thi xã Bạch Mai ngày nào.

Cuộc bút chiến này mặc dù bị Tôn Thọ Tường tấn công trước bằng những đòn cực kỳ xảo nguyệt, và cử nhân Phan Văn Trị ở tư thế phản công. Nhưng trong mọi cuộc giao tranh, không phải lúc nào kẻ đi tấn công cũng thắng mà nhiều lúc ngược lại. Bằng sức mạnh chính nghĩa Phan Văn Trị đã giáng cho đối thủ của mình những đòn sấm sét bất ngờ, dành thế chủ động ngay từ khởi điểm. Với luận điệu quanh co lấp lửng, Tôn Thọ Tường đã phô bày sức mạnh của kẻ cướp nước để lấy đó làm mối đe doạ cho người kháng chiến thì chính tại đây ông đã bị Phan Văn Trị đanh thép cảnh cáo:

Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ.

Lòng ta sắt đá há chẳng lay.

Khi Tôn Thọ Tường lên tiếng với những người kháng chiến rằng phải biết tình thế, phải biết nhìn xa trông rộng thì cũng chính lúc đó Phan VănTrị lại khăng khái chỉ vào mặt họ Tôn trả lời:

Người trí mảng lo danh chẳng chói

Đứa ngu luống đợi tuổi trông chờ.

Và cái tên Phan Văn Trị đã thực sự làm cho bọn thực dân cướp nước chú ý. Chính từ tinh thần đấu tranh kiên trung ấy mà cuộc đời ông đã gặp phải những rắc rối những thăng trầm do thời cuộc mang lại. Thân thế và sự nghiệp của ông cũng từ đó bị hạn chế bởi sự tầm nã, tiêu diệt cuả bọn thực dân và tầng lớp tay sai bán nước cầu vinh.

Từ đó dẫn đến một hệ quả rằng về sau này tất cả các cứ liệu liên quan đến cử nhân Phan Văn Trị đã hoàn toàn bị thất tán. Nhân dân và sĩ phu yêu nước tuy vẫn tôn vinh cụ cử Phan nhưng những tài liệu về cuộc đời của cụ hoàn toàn không ai ghi chép, lưu truyền, có chăng cũng chỉ là mảng sáng tác văn thơ của ông.

Cho đến nay vấn đề thân thế của nhà thơ, vị chí sĩ kiên trung của vùng đất Tây Nam Bộ vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất của các giới nghiên cứu. Mặc dù vào năm 1985 tỉnh Cần Thơ (cũ) đã tổ chức một cuộc hội thảo có qui mô về thân thế và sự nghiệp của cư nhân Phan Văn Trị và sau này có một vài công trình nghiên cứu có tính toàn diện về ông nhưng tất cả vẫn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi lớn: rằng quê hương và dòng họ của ông nơi đã hun đúc tâm hồn yêu nước nồng nàn, tính cương trung của một chí sĩ có trách nhiệm với sinh mệnh đất nước trước hoạ xâm lăng cần phải xác định một cách cụ thể và tính thuyết phục cao hơn, nhằm minh xác cho những nguồn tư liệu mang nhiều sự chỉ định khác nhau.

Trong cuốn Phan Văn Trị cuộc đời và tác phẩm hai tác giả  Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân đã tóm lược các ý kiến này như sau:

- Ý kiến cho rằng Phan Văn Trị quê ở làng Hưng Thạnh tổng Bảo An tỉnh Vĩnh Long (Bến Tre ngày nay).

- Ý kiến của Nhất Tâm Phan Văn Trị 1830 – 1910  lại cho rằng quê ở làng Thanh Hồng tỉnh Gia Định.

- Ý kiến của Thuần Phong, Bảo Định Giang lại cho rằng Phan Văn Trị sinh tại làng Hanh Thông huyện Bảo An tỉnh Gia Định.

- Ý kiến của Nguyễn Sanh Kim cho rằng Phan Văn Trị sinh tại làng Long Tuyền, Bình Thuỷ, Cần Thơ.

Tóm lược các ý kiến nêu trên bằng những lập luận có tính khoa học, hai nhà nghiên cứu đã phân tích một cách cụ thể những bất ổn về mặt sử liệu đã được viện dẫn, để rồi cuối cùng đã đưa ra một tài liệu có tính sử liệu cao nhằm xác định lại quê hương cũng như sinh quán của Phan Văn Trị.

Theo hai nhà nghiên cứu trên thì trong tàng bản của thư viện Long Cương được trường Viễn Đông Bác Cổ cho làm microfilm và thư viện KHXH Tp. HCM lưu giữ ở hộp số 137 đoạn vf 314 bộ Quốc Triều Hương Khoa Lục. Nguyên bản Hán Nôm ghi chép về thi cử và những thí sinh thi đỗ thứ hạng cử nhân trở lên của các trường thi cả nước vào thời Nguyễn. Ở quyển thứ 3 ghi về các tân khoa trường thi Gia Định có đoạn chép “Phan Văn Trị, Vĩnh Long, Bảo An, Hưng Thạnh”. Nghĩa là Phan Văn Trị ở làng Hưng Thạnh tổng Bảo An tỉnh Vĩnh Long. Ông thi đỗ cử nhân vào năm Kỉ Dậu (1849). Khoa này, quan bố chánh tỉnh Phú Yên là Vũ Trọng Bình làm giám khảo. Quan án sát tỉnh Quảng Nam là Quản Trọng Tự làm phó giám khảo. Đây là khoa đặc biệt, chỉ có trường Gia Định thi, còn tất cả các trường khác điều phải hoãn đến năm Canh Tuất (1850) vì cả nước bị bệnh dịch hoành hành dữ dội.

Khoa thi này trường Gia Định có tất cả 17 người đỗ cử nhân, Phan Văn Trị đỗ thứ 10. Đỗ  đầu là Vũ Thế Hoà và đỗ thứ hai là Nguyễn Thái Thông tức Nguyễn Thông. Căn cứ vào tài liệu nêu trên chúng ta biết rằng Làng Hưng Thạnh tổng Bảo An tỉnh Vĩnh Long nay thuộc thôn Hưng Thạnh xã Thạnh Phú Đông huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên, trong các tài liệu về Phan Văn Trị các nhà nghiên cứu chỉ dừng lại xác định quê hương bản quán mà không tìm được thân tộc hay dòng họ đang còn tồn tại ở đây. Đó cũng là một vấn đề bỏ ngỏ, mà cho đến nay khi viết về ông ít ai có thể đề cập một cách hoàn chỉnh về dòng họ và vùng đất mà ông sinh ra.

Nhân dịp thực hiện bộ gia phả họ Phạm tại Phước Long, huyện Giồng Trôm  cho ông Phạm Minh Triều nguyên là phó chủ tịch Uỷ ban nhân tỉnh Bến Tre do Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia Phả Tp.HCM thực hiện. Trong những chuyến điền dã, khảo sát về dòng họ Phạm tại xã Phước Long và xã Nhơn Thạnh của huyện Giồng Trôm. Nhóm thực hiện đã phát hiện ra mối liên hệ giữa dòng họ Phạm với dòng họ Phan mà cụ thể là đã cơ bản đã tìm ra thân tộc của Phan Văn Trị bằng những cứ liệu có tính thuyết phục cao.

Theo tài liệu ghi chép của chị Cúc Xuân giáo Viên Trường PTTH Phong Điền cho chúng tôi biết thì thân sinh của thân phụ của chị vốn là học trò của cụ Phan vào những năm cuối đời tại làng Nhân Ái. Cụ  là người biết rõ về gia thế của cụ Phan đặt biệt là quan hệ dòng họ tại Bến Tre. Cũng theo hồi ức ghi chép của cụ Lê Quang Nhật (thân phụ chị Cúc Xuân) thì cụ Phan Văn Trị có ba người em, một người định cư tại Gò Vấp một người thì sinh sống tại làng Hưng Phú và một người sống ở làng Mỹ Thạnh xã Thạnh Phú Đông, Giồng Trôm. Theo cụ Nhật thì có lần cụ đưa người em tên là Phan Văn San tìm đến làng Nhân Ái gặp cụ Phan Văn Trị và thông qua ông San, cụ biết thêm rằng dòng họ cụ Phan vẫn còn rất nhiều con cháu. Trong đó có ba cháu gái gọi cụ Phan bằng bác ruột làm ăn rất phát đạt là: Phan Thị Diềm, Phan Thị Hoá, Phan Thị Chi.

Từ tư liệu này đã hé mở ra một thông tin rằng tại ấp Mỹ Thạnh qua gia phả dòng họ Phạm và cũng như những ghi chép văn bia tại đồng mả cách khu đồng mả của dòng họ Phạm khoảng 1 km có một ngôi mộ không ghi họ tên người mất mà chỉ để duy nhất các dòng chữ “Các con Phan Thị Diềm, Phan Thị Hoá, Phan Thị Chi đồng lập mộ”.

Từ thông tin gia phả họ Phạm chúng ta biết rằng bà Phan Thị Diềm là vợ của ông Phạm Văn Dư thuộc đời thứ III con thứ sáu của ông Phạm Văn Vân và bà Võ Thị Đừng. Bà Phan Thị Diềm sinh năm 1865 mất ngày  02/02/1951 thọ 86 tuổi. Nghệ sĩ nhân dân, anh hùng lao động, đạo diễn Phạm Khắc - nguyên giám đốc Đài Truyền hình Tp. HCM và ông Phạm Minh Triều nguyên phó chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre làcháu nội của bà Phan Thị Diềm và cũng là cháu cố của cụ Phan Văn Trị.

Cũng trong thời gian thực hiện bộ gia phả họ Phạm tại xã Phước Long, nhóm thực hiện gia phả cũng đã phát hiện ra tấm bia mộ của cụ Phan Văn San được người cháu là Phan Văn Kích con của ông Phan Văn Trò gìn giữ rất cẩn thận. (Ông Phan Văn Trò là người con thứ hai của cụ Phan Văn San).

Từ những cứ liệu nêu trên chúng ta có thể thấy rằng mối lên hệ về dòng họ của cử nhân Phan Văn Trị về mặt cơ bản vẫn còn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Từ dòng chảy hữu thức hay vô thức sự nối tiếp kế thừa một truyền thống dòng họ luôn được phát huy một cách tối đa. Và cũng từ bộ gia phả này cũng  mở ra cho chúng ta - những nhà nghiên cứu - nhìn về các nhân vật mà vai trò xã hội của họ đã gắn chặt vào sự hình thành và phát triển của vùng văn hoá Nam bộ như cử nhân Phan Văn Trị đã khép lại những tồn nghi và những tranh cãi diễn ra kéo dài từ hàng thập niên nay.

Điều đó cũng có thể khẳng định rằng vùng đất Phước Long, Giồng Trôm là vùng đất địa linh nhân kiệt đã sản sinh ra những nhà văn hoá, những chiến sĩ cách mạng kiên trung, mà nền tảng của nó là yếu tính cơ bản của dòng họ. Từ tinh thần Phan Văn Trị, một chiến sĩ sử dụng ngòi bút trong mặt trận đấu tranh văn hoá tư tưởng, đứng trước sự xâm lăng của thực dân và tính nhu nhược của chế độ phong kiến đương thời, đã làm nên một hiện tượng mang đầy hào khí Nam bộ theo đúng tin thần mà cụ Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng đinh “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, đăm mấy thằng Tây bút chẳng tà” của cha ông chúng ta trước di hoạ xâm lăng của bọn thực dân cướp nước.

Bài đăng từ nguồn Trung tâm Thực hành Gia Phả Tp.HCM

Mới hơn Cũ hơn